LỊCH SỬ VIỆT NAM
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Phật giáo

Go down

Phật giáo Empty Phật giáo

Bài gửi by justin_timberlake Mon Jun 23, 2008 8:53 pm

Phật giáo là do đạo Bà la môn mà ra, nguyên trước Thiên chúa giáng sinh, dân tộc Á Lợi An tràn vào đất Ấn Độ, ở rải rác một dọc sông Hằng, dựng ra thành nhiều nước nhỏ. Dân xứ đó chia ra làm bốn bậc người: bậc thứ nhất, gọi là Bà la môn, có thầy tu làm chủ, coi riêng việc tế tự, bậc thứ nhì là Lý đế lợi, các quý tộc làm chủ, coi về quyền chính trị, bậc thứ ba gọi là Phệ xá tức là hạng bình dân, bậc thứ tư gọi là Thủ đà chỉ làm nô lệ mà thôi.

Đạo Bà la môn vẫn thông hành ở xứ đó. Đến sau có ông Thích Ca mầu ni, thấy bọn thầy tu đạo Bà la môn sinh lắm điều lệ, và lại thấy người ai cũng ở trong vòng luân hồi, cũng chịu cảnh khổ não, như là: sinh, lão, bệnh, tử là bốn cái kiếp khốn nạn, vì thế chán đời, mà cầu một phép để giải thoát cái khổ não ấy, mới dựng ra một tôn giáo riêng gọi là Phật Giáo. Môn đồ về sau suy tôn ông ấy gọi là Phật Tổ Như Lai.

Nguyên ông ấy là Thích ca, tên là Cổ Đàm (Gôtama) tự là Thất Đạt ca, con vua nước Ca Duy Vệ (một nước nhỏ trọng nước Ấn Độ) tên là Tĩnh Phạm Đồ đầu gia. Phật mẫu tên là Tĩnh Diệm. Sách phật nói rằng: "bà mẹ chiêm bao thấy người vàng đầu thai, mà sinh ra ngài". Lại có sách nói rằng: "Bà mẹ chiêm bao thấy con voi có sáu ngà, biến thành hào quang soi vào bụng, rồi có mang mười tháng, đến lúc sinh ra thì sinh ra đằng sườn phía hữu, tự nhiên có cái hoa sen nảy ra để đỡ ngài lên, lại có hai con rồng ở trên trời xuống phun nước để tắm cho ngài, và có bách thần xuống chăm nom săn sóc. Ngài màu da vàng, lông tóc dựng ngược. Sinh ra khỏi, Ngài bước đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà thét rằng "trên là trời, dưới là đất duy có ta là quý hơn cả". Lời ấy chắc cũng là môn đồ bày ra.

Ngài sinh bấy giờ là ngày mồng tám tháng tư, nhưng không tường về năm nào. Một môn phái phía Bắc ấn Độ, thì nói sinh về năm 1028 trước Thiên Chúa vào khoảng đời vua Chiêu Vương nhà Chu, một môn phái ở phái Nam ấn Độ thì cho vào chừng năm 624 trước Thiên chúa, nhưng các nhà bác học thái tay bây giờ thì cho vào chừng năm 558 hoặc 520; cùng một thời với đức Khổng Tử.

Ông Thích Ca cũng đã lấy ba vợ, sinh được một con trai là La Hầu La. Năm hai mươi chín tuổi (đây theo sách ấn Độ, chớ sách tàu thì nói năm mười chín tuổi) xảy thấy một người già yếu tàn tật vào ăn xin, mới suy nghĩ ra đời toàn cảnh khổ, lập túc bỏ nhà vào rừng đi tu. Trước hết nhà tu ở núi đàn Đặc và núi Toàn Sơn, sau đến tu ở xứ Xá Vệ, ngày ngày mặc áo cà sa ngồi dưới gốc cây, để tĩnh niệm nghĩ cách giải thoát. Được bảy năm, xẩy tỉnh ngộ được đạo huyền diệu, tự xưng là Bồ Đà (bouddha) nghĩa là trong tâm tính đã sáng suốt cả rồi, từ bấy giờ mới đi truyền đạo.

Tục truyền ông ấy về sau ăn mỡ lợn, phát trướng mà mất ở nơi Câu thi. Lúc gần mất ông ấy nói rằng: "nay ta đã lên cõi Niết Bàn, nghĩa là lên chỗ cực lạc thế giới".

Ngài mất rồi, các học trò soạn nhặt các lời di ngôn, lập lại thành sách, cả thảy bốn mươi hai chương, chia làm ba quyển gọi là kinh Tam Tạng. Tạng nghĩa là chứa, vì các lời ngài chép ra chứa vào một chỗ, cho nên gọi là tạng, Tam Tạng:

1- Kinh Tạng, là những lời luân thường đạo lý;
2- Luật Tạng, là những lời trời cấm;
3- Luận Tạng, là những lời nghị luận.

Mục đích đạo Phật, chỉ có hai chữ hư vô là kiêm hết. Có câu rằng: "Hết thảy không có cái gì, chỉ vì cái nhâm duyên mà sinh ra. Nay dẫu tạm có, nhưng bản tính vẫn là không. Người đời càn dở giữ lấy cho làm của mình có, cho nên Đức Như Lai ra đời, lấy một chũ vô mà phá cái hoặc đấy". Mấy câu ấy đủ rõ đạo phật.

Đạo Phật chia trong cơ thể, gọi là Lục côn ) sáu cái gốc) là : nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), thân (mình), uý (ý tưởng). Các động vật có tới cơ thể, gọi là lục trần (sáu cái bụi) là: sắc (sắc đẹp). thanh (tiếng bay), hương (mùi thơm), vị (vị ngon), súc (chạm tới mình), pháp (tưởng tượng).

Lại có ngũ giới (năm điều cấm) là bất sát sinh (không được giết súc vật), bất đạo (không được trômg cắp), bất gian dâm (không được gian dâm), bất vọng ngôn (không được nói càn), bất ẩm tửu, thực nhục (không được uống rượu, ăn thịt).

Phép Phật có cách toạ thiền. Toạ thiền là người tu hành ngồi nhắm mắt ngoảnh mặt vào vách, tĩnh hết lòng trần tục, không nghĩa ngợi gì. Có bốn bậc:

1- Sơ thiền, không lo lắng
2- Nhị thiền, không khổ não
3- Tam thiền, rất vui sướng
4- Tứ thiền, không phải chịu vòng luân hồi nữa.

Luân hồi là kiếp trước làm những điều tội ác, thì chết xuông âm phủ phải chịu những tội khổ sở, rồi kiếp sau lại phải làm các giống súc vật, hoặc phải đầy đoạ những khổ ải.

Dưới âm phủ có một trăm ba mươi sáu động là những nơi ngục hình làm tội người ác. Những lời ấy là cách khuyên để khuyên cho người ta làm hiện mà chớ làm ác ấy thôi.

Rút lại thì đạo phật có hai chủ ý: một là sự khổ não, hai là giải thoát sự khổ não. Khổ não là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì khỏi khổ, vậy thì bỏ hết lòng dục trói buộc ở trần thế, thì ra được ngoài vòng luân hồi, rồi mới lên được cõi Niết bàn, nghĩa là lên cõi không khônglà nơi cực lạc thế giới.

Trên này nói đại khái nguyên uỷ đạo phật, còn đạo phật thịnh hành ở Ấn Độ và truyền bá sang tàu, sang ta, thì trongViệt sử yếu của cụ Quận Hoàng nói đã tường, nay xin nhắc lại và dịch như sau này:

"Sau khi ông Thích Ca mất, học trò là Ma Kha Ca Diệp hội hết đồ để thành Vương Sá cả thảy năm trăm người, đó là lần thứ nhất Phật giáo hội tụ. Cách một trăm năm nữa, Gia Sá Đa lại họp đệ tử ở Đôn sá Lị, cả thảy bảy trăm người, đó là lần thứ hai Phật giáo hội tụ. Tuy vậy trước sau trong ba năm, phật giáo lưu truyền, chỉ ở quanh một giải sông Hoàng Hà. Đến đời vua Mai Lị Gia dựng nước ở giữa đất Ấn Độ, hết sức mà chủ trì Phật giáo, thì Phật Giáo mời lan khắp cả sứ Ấn Độ. Trước Thiên chúa hai trăm ba mươi bốn năm (năm thứ hai mươi bốn đời Châu Noãn Vương), vua Kế Ma đại hội ở Kinh Đô, duy lấy phật giáo làm tôn chủ, bắt ép người trong nước phải theo, và sai bọn thầy chùa làm giáo sĩ, đi ra ngoại quốc mà truyền đạo; Từ đó Phật giáo mới lan khắp ra thế giới vậy.

Nước Tàu từ khi Ban Siêu (vào đời Hán Võ đế) đi sứ Tây Vực trở về danh hiệu Phật ở phương Tây, mới thấu đến tai người tàu. Năm Vĩnh Bình thứ tám đời vua Minh đế hán (Sau Thiên chúa sáu chục năm), vua sai người Thái Tịch sang Tây trúc cầu Phật. Thái Tịch mạng kinh Phật và hai thầy tăng là Nghiệp Mã đằng, Chúc Pháp Lan về Lạc Dương, vua sai lập chùa Bạch Mã để thờ Phật. Về sau có bọn Chi Đầu đà, Mã An Thế, Khang MịchTường mới dùng chữ nho mà dịch kinh là phật để dạy người tàu, các người ấy toàn là người Ấn Độ đến ở Tàu.

Năm Long An thứ ba đời vua An Đế nhà Tần (402) có người Phát Hiển qua đời Ấn Độ , đi du lịch hơn ba chục nước, rồi tự Tích Lan đảo vượt bể Nam Hải, mà về nước. Năm Đại Thông đời vua Vũ Đế nhà Lương (532), người Phổ Văn là người Tuệ Sing sang phía Bắc nước Ấn Độ, đem kinh phật về nước. Năm Trinh quán thí ba đời vua Thái Tôn nhà Đường, thầy chùa là Huyền Trang đi men Tây sang Ấn Độ mua được kinh Phật sáu trăm năm mươi bản. Năm Hàm Thanh thứ hai đời vua cao Tôn nhà đường (726) thầy chùa là Nghĩa Tính đi qua bể Nam Hải sang Ấn Độ, lấy được kinh Phật bốn trăm bản, ấy đều là người tàu sang Ấn Độ.

Đương khi nước ta nội thuộc, người tàu tôn tín thì người nước ta cũng tôn tín, ấy gọi là chủ đi đường nào thì đi đường đấy. Xét cho nội thuộc nhà Lương. Có người Lý Phật tử, Lý là họ, Phật Tử là tên, tức là tục cầu tự di truyền lại, mà thói mộ đạo Phật đã lâu chăng?

Xét ở cựu sử chép năm Thái Bình thứ hai đời vua Tiên Hoàng nhà Đinh, vua mến đạo phật, dùng người Ngô Chân Lưu làm Khuôn Việt thái sư. Đời vua Đại Hành nhà Lê, Sứ, Tàu đến nước ta, bao nhiêu tờ bồi vãng lai đều do ở tay Khuông Việt. Sau vua lại sai sứ sang Tàu cầu kinh Tam Tạng, vậy thì phật giáo truyền sang nước ta từ đó.

Vua Lý Thái Tổ là một vị vua chúa mà học thầy chùa là Vạn Hạnh; người nước ta như Từ Đào Hạnh, Không Lộ, Mẫu Giác, Lư ất đều là bậc danh nho mà tham tuý về phật học. Từ nhà Đinh đến nhà Lý, dựng chùa mô tượng, không lúc nào không có, vậy thì phật giáo thịnh hành ở nước ta cũng đã lâu.

Song đương bấy giờ các bậc danh công như ông Phạm Sư Mạnh, ông Lê Bá Quát cũng đã bài bác đi rồi. Đến đời vua Lê Thánh Tôn, lại cấm dân không được lập chùa mới, vậy Khổng giáo mỗi ngày một thịnh, thì Phật giáo mỗi ngày một suy, cũng là cái thềm bậc tiến hoá tự nhiện đó.

*

Xét đạo phật ấy hư vô làm tôn chỉ. chú ý rằng hết thảy chúng sinh nếu bỏ hết lòng ham muốn mà rũ sạch cái bụi đời bám vào mình, thì ngày sau mình hưởng cái phúc vô lượng. Cái mục đích ấy cũng cao, cái chủ ý ấy cũng lạ. Song hiềm vì đạ phật bày ra lắm điều kỳ ảo, nào luân hồi, nào siêu thoát, nào hoạ phúc, nào nhân quả, nói toàn những mối dị đoan, làm cho lòng người mê tín, mà không ích cho s ự thật cho nên đạo nho phải bác đi mà không cho là chính đạo.

Tuy vậy, Phật giáo cũng là một đạo giáo, người tầm thường vị tất đã hiểu thấu lý cao âu của nhà phật, thì cũng chớ nên bài bác khinh bỉ mà thành ra một người vô hạnh.
justin_timberlake
justin_timberlake
Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn Lâm Viện hiệu lý.
Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn Lâm Viện hiệu lý.

Tổng số bài gửi : 182
Age : 33
Đến từ : khai quang - vĩnh yên - vĩnh phúc
Registration date : 21/06/2008

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết